Paphiopedilum barbatum
Đây có thể là một loài thuộc giống Paphiopedilum được trồng rất rộng rãi ở những vùng thấp thuộc Malaysia và Singapore. Chúng có nhiều ở Penang Hill trên độ cao 700 m, mọc trên các triền đá granite nơi có nhiề bóng râm.
Trên núi Ophir và Kedah Peak (1.000 – 1.200 m), chúng mọc trên nơi có rêu tạo nên bởi các con suối, và ở nơi quang đãng. Có nhiều cây rất đẹp được thu thập từ Kelantan và Terengganu. Người ta cũng thấy chúng xuất hiện ở Thailand.
Paphiopedilum là loài lan có thân lùn tịt, với những cái lá gấm, dài 10 – 15 cm. Hoa của chúng khá là đẹp, với lá đài sau rộng, nổi bật với màu trắng ánh xanh lục, có những kẻ sọc màu đỏ theo chiều dọc, ra đến biên thì nhạt dần đi. Các cánh hoa hẹp, dang sang hai bên và đầu cánh hoa hơi chúc xuống dưới.
Một số mụn cóc có lông mịn tạo thành những chấm lên trên diểm của cánh hoa, ngoài ra chúng còn có những đường kẻ màu xanh khi ra đến gần diềm thì chuyển sang màu hồng. Cái túi rộng màu đỏ tía. Chúng có hình dạng trông giống như Paph. callosum nhưng nổi bật ở chỗ hình dạng cũng như các đốm của lá đài sau và vị trí của cánh hoa cũng như hình dạng của lá đài kép.
Về khía cạnh tế bào học, đối với Paph. barbatum, 2n = 38, trong khi đó đối với Paph. callosum thì chỉ có 32 nhiễm sắc thể. Số nhiễm sắc thể thông thường là 26.
Paph. barbatum được phát hiện bởi Huge Cumings vào năm 1938 trên Mount Ophir ở Bán đảo Malaysia, đây là loài thứ tư trong giống Paphiopedilum được công bố.
Chúng được lai tạo và trồng rộng rãi ở châu Âu. Chúng cũng phát triển tốt ở Singapore, với chất trồng là gạch vụn, than và vỏ cây, nhưng chúng cần nhiệtđộ thấp vào ban đêm để có thể ra hoa tốt hơn.
Paphiopedilum bullenianum
Loài này được ông Hugh Low phát hiện lần đầu tiên ở Borneo, song cũng thấy chúng ở dốc núi Gunung Panti ở Johor và trên vùng Paplau Tioman ngoài bờ biển của Johor thuộc bán đảo Malaysia. Loài này sống trong bóng râm mạnh trên mặt đất xốp dầy và có lá mục, ở đó luôn có độ ẩm cao. Đây là một loài lan lùn, lá gấm mỗi lá dài 10 đến 15 cm.
Vòi hoa dài cỡ 30 cm, vươn lên trên, có một đến hai hoa, đo chiều ngang mỗi hoa được 7 cm. Lá đài sau màu xanh và xó sống lưng (hoặc uốn cong vào trong) ở phần chân, và có những đường kẻ dọc mà xanh đậm. Các cánh hoa dang sang hai bên, diềm thường có gợn sóng. Túi (hài) của hoa có màu gỗ của cây dái ngựa lợt dần thành trắng ở phần ngọn. Ở Singapore người ta thấy nó không ra hoa, trừ phi trồng trong nhà có làm mát.
Paphiopedilum niveum
Đây là loài lan hài rất nổi tiếng ở Langkawi, một nhóm đảo ngoài khơi phía tây bắc của bán đảo Malaysia. Người ta cũng cho biết nó có mặt ở Penang và trên những hòn đảo Tambilan phía tây Borneo. Một biến loài ở Thailand được biết dưới cái tên Paph. niveum var. Ang Thong đến từ các đảo Yến ở vịnh Siam. Chúng mọc trong các khe đá hấu hết là thấp ngang mực nước biển. Vì khai thác quá mức nên loài này ở Paplau Langkawi làm cho chúng kiệt quệ.
Đây là loài lan nhỏ với những lá gấm, chỉ dài 10 cm và từ thân cây chúng phát triển theo chiều ngang. Mỗi cây chỉ có một hoặc hai hoa nhỏ, cánh tròn, màu trắng xuất phát ở ngọn cuống hoa dài 15 cm và trên cuống hoa cũng có lông. Đo chiều ngang mỗi hoa chỉ có 5-6 cm và có sự khác biệt giữa các cánh hoa và lá đài sau, đó là ở lá đài sau có những chấm ở phần chân. Màu trắng tuyền của hoa trông rất thanh tú. Chúng thường ra hoa từ tháng Mười hai đến tháng Tám, cao điểm là từ tháng Tư và Năm.
Paph. niveum rất dễ trồng và siêng ra hoa ở vùng đất thấp nhiệt đới, nhưng cây của nó không được cứng cáp. Có khá nhiều loài lai với Paph. niveum, đặc biệt là dòng alba cho ra hoa màu trắng thanh nhã, cánh tròn và gây ấn tượng.
Các ông Kamemoto và Sagarik tin rằng cây var. Ang Thong có thể cho lai với Paph. godefloyae.
Paphiopedilum stonei
Paph. stonei trên nền đá vôi ở vùng Sarawak trên độ cao 300 đến 500 m. Ông Hugh Low đã tìm thấy loài này vào năm 1860. Theo như ông Holttum, những ghi chép trước đây, chúng không ra hoa khi trồng ở Singapore. Nhưng rồi đến lần trồng sau thì chúng đã ra hoa mà không cần tác động gì.
Loài này thuộc loại lớn cây, lá dầy, màu xanh với chiều dài 30 cm. Vòi hoa dài tới 60 cm, mang trên nó từ 3 đến 5 hoa, mỗi hoa cao 12 cm. Lá đài sau có hình trái tim, màu trắng kem, dọc theo lá đài là những đường kẻ màu đen ngả nâu. Các cánh hoa rất hẹp và uốn cong ra phía ngoài rồi chúc xuống dưới, màu của các cánh hoa là vàng kem có những chấm màu nâu đỏ. Hai mặt của cánh hoa đều có lông mịn ở nơi tiếp giáp với trụ hoa. Túi (hài) có màu kem, phía trước ánh lên màu hồng, với những đường vân như mắt lưới mà hạt dẻ. Một số hoa nở cùng thời điểm, trong rất đẹp nếu như chúng ra hoa vào giữa mùa hè.
Paphiopedilum sukhakulii
Hình dáng của hoa thuộc loài này trông như con chim dang rộng hai cánh, loài lan nổi trội này được Prasong Sukhakul tìm thấy ở miền đông bắc Thailand. Nơi phát hiên ra chúng là trên núi Phu Luang thuộc tỉnh Loei, trên độ cao 1.000 m, trong vùng đất có nhiều mùn do có nhiều lá cây mục, ngay cạnh bờ suối dưới bóng cây do vậy mà cường độ ánh sáng thấp, chỉ vào khoảng 800-900 nến. Bề ngoài về đặc tính thực vật của chúng cũng tương tự như Paph. callosum nhưng chỉ là lúc chúng chưa có hoa.
Đặc tính nổi trội nhất của loài này là hoa to, các cánh hoa màu xanh, đầu nhọn, có 6-8 đường vân như những đường kẻ, màu xanh đậm, lốm đốm những chấm màu đỏ nâu, diềm co lông mịn. Lá đài sau hướng lên trên và đầu nhọn, có 11-13 đường kẻ mà xanh lợt trên nền trắng. Túi có màu xanh ngả vàng khi lên đến đỉnh thì pha thêm màu nâu đồng ở diềm. Đó chiều ngang của hoa được 10 cm và chỉ có một hoa trên cán hoa có lông với chiều cao 10 cm.
Là một trong những loài lan đẹp nhất, thời điểm thích hợp để Paph. sukhakulii ra hoa là trong tháng Chín, tháng Mười, cũng đôi khi ra hoa vào mùa xuân.
Paphiopedilum villosum
Đây là loài Paphiopedilum lớn đồng thời là loài lan biểu sinh, được tìm thấy trên cao (1.300-1.700 m) ở Chiangmai, Thailand, Myanmar và Assam. Đối với chúng, vùng đất thấp là không thích hợp. Lá của chúng dài tới 30 cm, chỉ có một hoa nhưng hoa to, đo chiều ngang được 9-15 cm, cánh hoa bóng; là một loài có hoa to nhất trong cùng một giống. Màu cơ bản của chúng có thể thay đổi, từ màu lục sáng đến màu vàng với những đường kẻ màu đỏ tía ngả nâu, những đường kẻ này nổi bật nhất là ở phần chân, trong khi đó các cánh hoa lại có màu nâu ngả vàng. Hoa có hình dạng rộng mở nhưng vẫn có thể tồn tại từ 6 đến 8 tuần nếu trong điều kiện hoàn hảo. Mùa ra hoa là vào tháng Giêng và Hai.
Paphiopedilum concolor
Paph. concolor là thành viên của nhóm Brachypetalum, vì vậy mà chúng thuộc loài có lá gấm và vòi hoa thì khá ngắn. Loài này được tìm thấy ở nửa phía nam của Thailand, Đông Dương và Myanmar, đây là loài dễ trồng và cũng dễ ra hoa ở vùng đất thấp. Chúng mọc trong khe đá ở vùng thấp trên bờ biển, trên độ cao chỉ 300 m, nhưng người ta lại tìm thấy chúng trên độ cao 1.000 m vùng cao nguyên. Mùa hoa là vào tháng Năm.
Màu của hoa thường là màu kem đến màu vàng trái mơ có những chấm màu hạt dẻ. Các cánh hoa cũng như lá đài sau đều tròn, đo chiều ngang của hoa được 6 cm. Thông thường mỗi cây có một hoa, đôi khi có tới 3 hoa cùng xuất hiện trên một cuống hoa. Hiện có những mô tả và tên gọi khác nhau.
Paphiopedilum godefroyae
Loài này thường thấy ở những nơi có lá mục, tương tự như loài Paph. niveum và Paph. concolor, thấy nhiều ở sường dốc núi đá vôi, ở vị trii1 khá thoáng đãng. Trên những hòn đảo yến của Thailand chúng thường mọc ở phía có nắng buổi chiều.
Hoa của loài này to và tròn, đo chiều ngang được 9 cm, màu trắng kem đến xanh lục nhạt với những chấm màu đỏ tía ngả nâu. Cuống hoa ngắn, mang trên nó từ 1 đến 2 hoa từ tháng Mười hai đến tháng Bảy. Ông Hottum cho rằng có thể đây là loài lan lai trong tự nhiên giữa Paph. bellatulum và Paph. concolor.
Paphiopedilum lowii
Không giống như anh em của nó, loài này lại thuộc lan biểu sinh mọc trên các cây già trên độ cao 1.000 đến 1.300 m trên các dẫy núi ở bán đảo Malaysia. Người ta cũng thu thập được loài này từ Borneo và Sumatra. Ở Singapore người tra trồng chúng ở trên đất thấp, chúng phát triển tốt và cũng ra hoa. Lá của loài này dài tới 30 cm, thon và chỉ có một màu xanh tuyền. Trên một cuống hoa có thể có tới 2 đến 6 hoa, đo chiều ngang mỗi hoa được 10-12 cm. Các cánh hoa dài gấp đôi lá đài sau, và trải rộng ra, hơi cong xuống dưới. Màu hoa là nâu hoặc màu rượi chát và điểm thêm những chấm ngả nâu ở tâm, lan dần ra mép trở thành màu hồng hoặc tím. Màu sắc của lá đài sau thì biến thiên từ vàng sang lục, phủ một màu nâu nhạt và các đường sọc đậm dần ra đến đầu cánh hoa. Túi (hài) màu nâu.
Originally posted 2021-01-09 10:56:15.